- Đại cương
Ung thư biểu mô tế bào đáy (basal cell carcinoma - BCC) là ung thư da xâm lấn phổ biến nhất ở người. Những triệu chứng phổ biến nhất thường được bệnh nhân than phiền là chảy máu hoặc vết loét đóng vảy cứ lành rồi tái phát. BCC được coi có xu hướng là không ác tính bởi vì khối u hiếm khi di căn. BCC tiến triển sẽ xâm lấn trực tiếp và phá hủy mô bình thường xung quanh. Nếu không được điều trị hoặc điều trị không đầy đủ, ung thư có thể phá hủy toàn bộ mặt hoặc thâm nhập mô dưới da vào xương và não.
Ung thư biểu mô tế bào đáy và ung thư biểu mô tế bào vảy (squamous cell carcinoma – SCC) được coi là ung thư da không phải tế bào hắc tố.
BCC là loại ung thư phổ biến nhất ở người, chủ yếu là người da trắng, ít gặp hơn ở người da nâu và da đen. Bệnh thường gặp ở người trên 40 tuổi và tỷ lệ mắc ở Nam cao hơn Nữ.
Nguyên nhân thường là do tiếp xúc kéo dài với bức xạ cực tím, đặc biệt là tia UVB (290 – 320 nm). Bức xạ này gây đột biến trong các gen ức chế sinh u. Xu hướng cho BCC đa tổn thương có thể là do di truyền, liên quan đến đột biến trong gen PTCH trong nhiều trường hợp
Yếu tố làm dễ: da type I và II (theo phân loại Fitzpatrick) và người bị bạch tạng rất dễ bị BCC nếu tiếp xúc với ánh nắng kéo dài. Ngoài ra, tiền sử phơi nắng nhiều lúc trẻ cũng khiến da dễ bị BCC hơn khi về già. Liệu pháp điều trị tia X cho mụn trứng cá trên mặt cũng làm tăng đáng kể nguy cơ BCC. BCC thể nông đa trung tâm xảy ra 30 – 40 năm sau khi ăn phải arsen cũng có nhưng không rõ ràng.
2. Biểu hiện lâm sàng
Bệnh tiến triển chậm, thường không có triệu chứng. Vết trợt hoặc chảy máu chỉ với chấn thương nhẹ có thể là triệu chứng đầu tiên.
Có 5 thể lâm sàng của BCC là
- Thể nốt: là sẩn hoặc nốt, trong mờ hoặc long lanh như ngọc trai, có màu da hoặc màu đỏ, bề mặt trơn láng với giãn mạch, ranh giới rõ, sờ chắc. Một phần của BCC dạng nốt có thể có vết trợt hoặc có vài chấm sắc tố melanin.
- Thể loét: là một vết loét (thường được bao phủ bởi một lớp vảy tiết) với bờ cuộn lên (vết loét gặm nhấm), bờ cũng có tính chất trong mờ, long lanh như ngọc trai, trơn láng với giãn mạch, sờ chắc.
- Thể xơ cứng: là một dát nhỏ giống như xơ cứng bì hoặc như một vết sẹo nông, ranh giới thường không rõ, có màu da hoặc màu trắng nhưng cũng có thể có sắc tố rải rác như hạt tiêu. Trong thể này, có sự tăng số lượng chất nền sợi xơ. Về mặt mô học, có những dải sợi của khối u giống như ngón tay mở rộng xa vào mô xung quanh. Vì vậy, cần phải cắt bỏ với biên độ rộng hơn. Thể xơ cứng BCC có thể tiến triển thành thể nốt hoặc thể loét.
- Thể nông đa trung tâm: là một mảng da mỏng, màu đỏ hoặc hồng, đặc trưng là đường viền giống như sợi chỉ mỏng và giãn mạch có thể nhìn thấy với kính lúp. Đây là thể duy nhất của BCC có hiện diện một số lượng vảy da đáng kể. Thể này cũng có thể tiến triển thành thể nốt và thể loét. BCC thường chảy máu với những vết trợt nhỏ. Trong khi dày sừng ánh sáng, không chảy máu nhưng lại có triệu chứng đau với những vết trợt nhỏ.
- Thể tăng sắc tố: có thể có màu nâu hoặc xanh hoặc đen. Bề mặt trơn láng, lấp lánh, sờ cứng, chắc. Có thể khó phân biệt với melanoma thể nốt hoặc thể nông lan tỏa. Tổn thương dạng nang có thể xảy ra: hình tròn hoặc hình ovan, trung tâm lõm (dạng rốn). Tăng sắc tố lốm đốm có thể nhìn thấy ở bất kỳ thể BCC nào.
3. Phân bố
Tổn thương thường đơn độc, hiếm khi thấy nhiều thương tổn. >90% xảy ra ở vùng mặt. Những vị trí nguy hiểm nhất là: khóe mắt trong và ngoài, rãnh mũi má và sau tai. Thể nông đa trung tâm có thể xuất hiện ở thân mình. BCC chỉ phát triển từ thượng bì nên có khả năng xuất phát từ nang lông. Vì vậy, BCC hiếm khi xuất hiện ở viền môi hoặc trên niêm mạc sinh dục.
4. Chẩn đoán
Tiêu chuẩn vàng là Giải phẫu bệnh
5. Chẩn đoán phân biệt
Thể nốt có thể phân biệt với nhiều sẩn trơn láng khác như nốt ruồi trung bì, u biểu bì nang lông, u xơ da...
Thể sắc tố có thể phân biệt với Melanoma dạng nốt và dạng nông lan tỏa.
Thể loét có thể phân biệt với các vết loét không rõ nguyên nhân như SCC và săng giang mai.
6. Điều trị
a. Nội khoa
Thuốc mỡ 5-Fluorouracil và kem Imiquimod 5 lần/tuần trong 6 tuần có hiệu quả nhất định trong điều trị BCC và không để lại sẹo. Tuy nhiên, nhược điểm là thời gian điều trị kéo dài và có thể không loại bỏ triệt để tất cả các mô của khối u.
Liệu pháp quang động học (Photodynamic therapy) chỉ có hiệu quả trong các tổn thương rất nông và các phiên bức xạ (thuốc nhuộm quang động + ánh sáng nhìn thấy) đều gây đau đớn.
b. Ngoại khoa
Áp lạnh và đốt điện có thể được lựa chọn nhưng chỉ cho các thương tổn rất nhỏ ở những vị trí không nguy hiểm hoặc trên da đầu.
Cắt bỏ thương tổn với đóng da, vạt da hoặc ghép da vẫn là phương pháp điều trị tối ưu nhất cho BCC. Trong đó phẫu thuật Mohs được coi là tiêu chuẩn vàng trong điều trị, đặc biệt là ở những vị trí nguy hiểm (rãnh mũi má, vùng xung quanh mắt, trong ống tai, trong rãnh tai sau, trên da đầu) và BCC thể xơ cứng.
c. Xạ trị
Chỉ là giải pháp thay thế khi phẫu thuật cắt bỏ có thể gây ra những biến dạng lớn (như ở mắt hoặc tổn thương lớn vùng mũi họng) hoặc ở tuổi rất già.
7. Một số hình ảnh phẫu thuật Ung thư biểu mô tế bào đáy tại Bệnh viện Da liễu Đà Nẵng
Hình 1: Tạo hình vạt V-Y
Trước phẫu thuật Ngay sau phẫu thuật Sau phẫu thuật 7 ngày
Hình 2: Tạo hình vạt hình thoi
Bs Nguyễn Hồng Dương
Khoa Phẫu thuật thẩm mỹ
Chúng tôi trên mạng xã hội